Có thương, thì nghe anh nhủ Minh về Hà Tĩnh nghe em Về nghe câu ví dặm, mẹ ru anh À ơ.................. Về nghe em, nắng hè đất nẻ Gió Lào qua, bụi chuối, buồng cau Mời em [A]bát nước chè xanh Tình [Bm]sâu nghĩa nặng quê anh [A7]nhớ về Quê hương anh, đi mô mà nỏ nhớ Hà Tĩnh ơi [Dm7]sâu nặng ân tình Mình [Bm]về Hà Tĩnh mình [Bm]đi Nghe câu hò tình [Bm]quê dịu ngọt Nước sông La đêm tɾăng gợn bạc Khua mái chèo lặn lội cùng em Về nghe em, về say câu ví quê nhà Say hương bưởi thơm cam bù tɾái ngọt Về đi em, về thăm dòng sông ngàn ρhố Mùa nước nổi vẫn êm đềm như khúc hát mẹ ɾu.
GIỚI THIỆU VỀ THÀNH PHỐ HÀ TĨNH
Thành phố Hà Tĩnh nằm ở toạ độ 180 24’ vĩ độ Bắc, 1050 56’ kinh độ Đông. Cách Hà Nội 360 km và Vinh 50 km về phía Nam. Bắc giáp thị trấn Cày, thuộc huyện Thạch Hà; Nam giáp huyện Cẩm Xuyên; Đông giáp xã Thạch Khê, Tượng Sơn huyện Thạch Hà; Tây giáp các xã: Thạch Vịnh, Thạch Tân, Thạch Đài thuộc huyện Thạch Hà. Diện tích đất tự nhiên của Thành phố 56.32,64 ha, trong đó đất phi nông nghiệp 2.064,69ha (đất ở đô thị 298,70ha, đất ở nông thôn 145,88ha, đất chuyên dùng 1 620,11 ha); đất nông nghiệp 3.167,16 ha; đất khác 400,79ha. Là địa bàn trung tâm, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh của tỉnh.
[caption id="attachment_6715" align="aligncenter" width="600"] Thành phố Hà Tĩnh về đêm[/caption]
Thành phố Hà Tĩnh ngày nay là mảnh đất lịch sử tồn tại từ thời dựng nước, thuộc địa bàn nước Văn Lang thời Hùng Vương. Trong thời Bắc thuộc, vùng đất này thuộc quận Cửu Chân, rồi huyện Hàm Hoan, quận Cửu Đức, quận Nhật Nam, châu Phúc Lộc. Đời Tiền lê (980-1008) thuộc châu Thạch Hà. Từ năm 1025, đời Lý thuộc trại Định Phiên; đời Trần Hồ (1226 -1407) thuộc Châu Nhật Nam; thời thuộc Minh (1047 -1427) là đất huyện Bàn Thạch, Châu Nam Tĩnh. Thời Hậu Lê thuộc huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, Thừa Tuyên (rồi xứ, trấn) Nghệ An. Đời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) lập tỉnh, tỉnh lỵ Hà Tĩnh cũng được hình thành từ đó. Năm Quý sửu, Tự Đức thứ 6 (1853), triều đình bỏ tỉnh, lấy phủ Hà Thanh (trước năm 1841 là Hà Hoa) lập đạo Hà Tĩnh. Đạo thành được đặt ở thôn Nài Thị xã Đại Nài, nguyên lỵ sở huyện Thạch Hà. Năm Ất Hợi, Tự Đức thứ 28 (1875) tỉnh Hà Tĩnh được lập lại, lỵ sở dời về xã Trung Tiết. Đến năm Tự Đức thứ 34 (1881) Thành Hà Tĩnh được xây dựng bằng gạch và đá ong theo kiểu Vô – băng (Vauban) (1). Tỉnh thành không phải là một đơn vị hành chính mà chỉ là nơi đặt trụ sở của chính quyền tỉnh. Cư dân ngoài thành đều thuộc quyền quản lý của xã Trung Tiết, tổng Thượng Nhị, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa(2). Khoảng năm 1920, có chủ trương “gia quảng” (mở rộng) sáp nhập các xóm Đồng Quế, xã Tắc, Trung Hậu, Tiền Bạt để thu thêm thuế nhà, thuế vệ sinh, còn về mặt hành chính vẫn thuộc xã Trung Tiết. Ngày 10 tháng 5 năm Giáp Ngọ (tức là 11/6/1924) vua Khải Định ban hành Đạo Dụ thành lập thị xã Hà Tĩnh. Ngày 30/7/1924, Toàn quyền Đông Dương Méclanh (Merlin) ra Nghị định chuẩn y Đạo dụ trên. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thị xã Hà Tĩnh chỉ là một tỉnh lỵ nhỏ bé với diện tích 1,2km2, có các phố: Tịnh Trung, Hoàn Thị, Tiền Môn, Hậu Môn, Tả Môn, Hữu Môn, Tân Giang, Nam Ngạn; dân số 4. 400 người. Trong thời kỳ thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến (1947-1948), các cơ quan xí nghiệp đều sơ tán về các vùng nông thôn. Quản lý thị xã lúc này là Uỷ ban phòng thủ, sau đổi thành Uỷ ban kháng chiến thị xã Hà Tĩnh. Từ năm 1948 đến năm 1957, thị xã Hà Tĩnh không còn trực thuộc tỉnh, mà chỉ là một đơn vị hành chính ngang xã, thuộc huyện Thạch Hà. Ngày 21/11/1957, Phó Thủ tướng Phan Kế Toại ký Nghị định số 564 tái thiết thị xã Hà Tĩnh trên cơ sở địa giới hiện tại. Thị xã Hà Tĩnh lại là đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh. Ngày 1/4/1960, Đảng bộ thị xã Hà Tĩnh được thành lập và tiến hành Đại hội lần thứ nhất. Thời kỳ này, thị xã có 4 đường phố là Phan Đình Phùng, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Danh Dương và Cao Thắng, có 3 xóm là Thành Đông (Nam Ngạn, Tân Giang, Tả Môn), Đồng Quế, Xã Tắc. Năm 1960 thành lập thêm phố Tân Bình, nhập thêm Liên Bình (Thạch Quý), Phú Lạc (Thạch Phú). Từ năm 1962 -1964, do yêu cầu xây dựng cơ quan và cho dân hồi cư, thành lập thêm hai khối phố mới là Trần Thị Hường và Lâm Phước Thọ. Một số bà con ở Thái Lan trở về được sắp xếp ở tập trung vào một vùng giữa Trung Quý và Đồng Quế lấy tên là khối phố Trần Đức Vịnh. Cũng trong thời gian này mở rộng và nhập thêm Trung Quý của xã Thạch Yên, Đông Phú của xã Thạch Phú vào thị xã. Thành lập hai hợp tác xã nông nghiệp Bồng Sơn, Đồng Hải. Trong thời kỳ chống Mỹ 1965 - 1972, nhân dân sơ tán về các vùng phụ cận vừa sản xuất vừa chiến đấu. Một bộ phận ở lại làm lực lượng nòng cốt bám trụ địa bàn. Trong thời kỳ này, tên gọi các khối phố là: Trần Thị Hường, Lâm Phước Thọ, Đồng Vinh, Lê Bình, Thành Đông, Trần Đức Vịnh. Sau khi đất nước thống nhất (1975), thực hiện Nghị quyết 245 NQ /TW, ngày 20 tháng 9 năm 1975 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp nhất thành tỉnh Nghệ -Tĩnh, thị xã Hà Tĩnh không còn là tỉnh lỵ. Tuy là đơn vị hành chính ngang cấp huyện nhưng đến năm 1979 vẫn chưa có chính quyền cấp dưới, thị xã Hà Tĩnh vừa làm chức năng cấp huyện, vừa làm chức năng cấp cơ sở, trực tiếp quản lý hai tiểu khu (Bắc Hà, Nam Hà). Tháng 9 năm 1981, thành lập hai phường Bắc Hà và Nam Hà trên cơ sở hai tiểu khu, có 9 khối phố là: Tân Lập, Trần Thị Hường, Lâm Phước Thọ, Đồng Hải, Lê Bình, Đồng Vinh (thuộc phường Bắc Hà); Thành Đông, Bồng Sơn, Trần Đức Vịnh (thuộc phường Nam Hà). Ngày 16 tháng 9 năm 1989, sáp nhập 6 xã: Thạch Linh, Thạch Trung, Thạch Quý, Thạch Phú, Thạch Yên và Đại Nài của huyện Thạch Hà vào thị xã Hà Tĩnh. Năm 1991, tại kỳ họp lần thứ 9 Quốc hội khóa VIII quyết định tách Nghệ- Tĩnh thành hai tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh như cũ, thị xã Hà Tĩnh trở lại là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 4 năm 1994, thành lập thêm hai phường mới là Trần Phú và Tân Giang. Thị xã có 4 phường, 6 xã với diện tích tự nhiên 30,6km2, dân số 49. 410 người. Tháng 8 năm 2002, UBND tỉnh Hà Tĩnh có quyết định phê duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thị xã Hà Tĩnh, trong đó xác định thị xã Hà Tĩnh là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học - kỹ thuật của tỉnh. Ngày 2 tháng 4 năm 2004, Chính phủ có Nghị định số 09/2004/ NĐ- CP về việc mở rộng địa giới hành chính thị xã Hà Tĩnh, cắt thêm 5 xã Thạch Hạ, Thạch Môn, Thạch Đồng, Thạch Hưng và Thạch Bình của huyện Thạch Hà vào thị xã. Ngày 19 tháng 7 năm 2006, Bộ Xây dựng có Quyết định số 1048/ QĐ-BXD công nhận thị xã Hà Tĩnh là đô thị loại III. Ngày 07 tháng 02 năm 2007, Chính phủ ra Nghị định số 20/2007/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới phường, xã thuộc thị xã Hà Tĩnh, chuyển các xã Thạch Linh, Thạch Yên, Thạch Quý thành phường, thành lập phường mới Nguyễn Du. Ngày 28 tháng 5 năm 2007, trên cơ sở thị xã Hà Tĩnh là đô thị loại III, Chính phủ ban hành Nghị Định số 89NĐ-CP về việc thành lập thành phố Hà Tĩnh trực thuộc tỉnh. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển thành phố Hà Tĩnh.
[caption id="attachment_6717" align="aligncenter" width="600"]
Một góc thành phố Hà Tĩnh[/caption]
Thành phố Hà Tĩnh có 16 đơn vị hành chính (10 phường, 6 xã), 155 thôn xóm, tổ dân phố (số liệu dân cư năm 2009):
Phường Bắc Hà là phần phía Bắc nội thành và một phần đất các làng Phú Hàu, Trung Hậu, xã Trung Tiết cũ. Phía Bắc giáp phường Nguyễn Du, Tây giáp phường Trần Phú, Đông giáp phường Tân Giang, Namgiáp phường Nam Hà. Trước năm 1945 là thôn Phú Hàu và Trung Hậu, xã Trung Tiết, Tổng Thượng Nhị. Tháng 7 năm 1977 là tiểu khu, năm 1981 chuyển thành phường, năm 1994 cắt một phần đất để lập hai phường mới là Trần Phú và Tân Giang; năm 2007 cắt một phần đất để thành lập phường Nguyễn Du. Diện tích tự nhiên 0,990km2, dân số 10.321 người và 15 tổ dân phố.
Phường Nam Hà là phần đất phía Nam nội thành, phía Bắc giáp phường Bắc Hà, Đông giáp phường Tân Giang, Nam giáp phường Đại Nài, Tây giáp phường Hà Huy Tập. Trước năm 1945 là đất thôn Trung Cần, Đồng Quế, xã Trung Tiết, Tổng Thượng Nhị. Tháng 7 năm 1977 là tiểu khu, năm 1981chuyển thành phường, năm 1994 cắt một phần đất phía đông lập phường mới Tân Giang. Có diện tích tự nhiên 1,095km2, dân số 7.082 người và 10 tổ dân phố.
Phường Tân Giang thành lập năm 1994 trên cơ sở một phần đất và cư dân của phường Bắc Hà, Nam Hà, phía Bắc và Đông giáp phường Thạch Quý, phía nam giáp phường Nam Hà, phía Tây giáp phường Bắc Hà. Trước năm 1945 là khu vực phía đông thành Hà Tĩnh và một phần thôn Khang Quý và Tiền Bạt xã Trung Tiết, tổng Thượng Nhị. Có diện tích tự nhiên 0,99km2, dân số 6259 người và 11 tổ dân phố.
Phường Đại Nài, phía Bắc giáp phường Văn Yên, phường Nam Hà, Đông giáp xã Tượng Sơn (Thạch Hà), Nam giáp xã Thạch Bình, phía Tây giáp xã Thạch Tân. Trước năm 1945 là xã Đại Nài thuộc tổng Thượng Nhị, huyện Thạch Hà. Sau năm 1945 cùng với các xã Thạch Bình, Thạch Tân nhập thành xã Thăng Bình. Năm 1954 chia làm ba xã: Thạch Bình, Thạch Tân, Thạch Hoà (Đại Nài), năm 1989, Đại Nài nhập vào thị xã. Có diện tích tự nhiên 4,264km2, dân số 5712 người và 10 tổ dân phố.
Phường Trần Phú được thành lập năm 1994 trên cơ sở một phần đất và cư dân của phường Bắc Hà và của các xã Thạch Linh, Thạch Phú xưa. Phía Đông giáp phường Bắc Hà, Nguyễn Du, Tây và Bắc giáp phường Thạch Linh, Nam giáp phường Hà Huy Tập; có diện tích tự nhiên 1,073 km2, dân số 6.368 người và 9 tổ dân phố.
Phường Thạch Linh, Bắc giáp xã Thạch Trung, Đông giáp phường Hà Huy Tập, Nam giáp Thạch Tân; Tây giáp hai xã Thạch Đài và Thạch Lưu (huyện Thạch Hà). Trước năm 1945 là làng cũ của xã Đại Tiết, tổng Thượng Nhị và Đông Lỗ, Tổng Thượng Nhất. Năm 1950 là xã Nhật Tân, năm 1951 gọi là xã Linh Đài. Năm 1954 chia Linh Đài thành 3 xã: Thạch Đài, Thạch Linh, Thạch Xuân (thuộc huyện Thạch Hà). Năm 1989, Thạch Linh nhập vào thị xã Hà Tĩnh. Năm 1994 cắt một phần đất để lập phường mới (Trần Phú), năm 2007 xã Thạch Linh chuyển thành phường. Có diện tích 6,193 km2, dân số 5.532 người và 12 tổ dân phố.
Phường Thạch Quý, phía Bắc giáp xã Thạch Trung, Đông giáp xã Thạch Hưng, Nam giáp phường Nguyễn Du, Tây giáp phường Tân Giang. Trước năm 1945 là các thôn Khang Qúy, Tiền Bạt, Trung Hậu thuộc xã Trung Tiết, Tổng Thượng Nhị. Từ năm 1954, đến năm 1988 là xã Thạch Quý thuộc huyện Thạch Hà. Năm 1989, Thạch Quý nhập vào thị xã Hà Tĩnh (năm 1993 cắt một số đất nhập vào các phường Bắc Hà, Tân Giang); năm 2004 chuyển thành phường. Có diện tích tự nhiên 3,581km2, dân số 6. 777 người và 12 tổ dân phố.
Phường Hà Huy Tập trước đây là hai làng Phú Hàu, Trung Cần thuộc xã Trung Tiết. Phía Bắc giáp phường Trần Phú, Đông giáp phường Nam Hà, Nam giáp phường Đại Nài, Tây giáp phường Thạch Linh. Trước năm 1945 là hai làng Phú Hàu và Trung Cần thuộc xã Trung Tiết, tổng Thượng Nhị. Từ năm 1954 đến năm 1988 là xã Thạch Phú thuộc huyện Thạch Hà, năm 1989 Thạch Phú nhập vào Thị xã (năm 1994 cắt một phần đất nhập vào phường Trần Phú, Bắc Hà). Năm 2004, Thạch Phú chuyển thành phường, có diện tích tự nhiên 2,008km2và dân số 4. 893 người và 9 tổ dân phố.
Phường Văn Yên, Bắc giáp phường Thạch Quý, Nam giáp phường Đại Nài, Đông giáp xã Tượng Sơn, Tây giáp phường Tân Giang và Nam Hà, trước là thôn Văn Yên xã Trung Tiết, Tổng Thượng Nhị, huyện Thạch Hà. Năm 1954 là xã Thạch Yên, huyện Thạch Hà. Năm 1989 nhập vào thị xã Hà Tĩnh, năm 2007 chuyển thành phường, có diện tích tự nhiên 2,536km2, dân số 3. 282 người và 5 tổ dân phố.
Phường Nguyễn Du được thành lập năm 2007 trên cơ sở các phần đất của phường Bắc Hà, Trần Phú, Thạch Quý, xã Thạch Trung. Phía Bắc giáp xã Thạch Trung, phía Nam giáp phường Bắc Hà, phía Tây giáp phường Trần Phú, phía Đông giáp phường Thạch Quý. Có diện tích tự nhiên là 2,203km2, dân số 5300 người và 9 tổ dân phố.
Xã Thạch Trung, Bắc giáp thị trấn Cày, Thạch Thượng (huyện Thạch Hà), Đông giáp phường Thạch Quý, Nam giáp phường Trần Phú, Tây giáp xã Thạch Linh. Trước năm 1945 là xã Hà Hoàng, tổng Thượng Nhất. Năm 1954 chia thành ba xã Thạch Hạ, Thạch Thượng, Thạch Trung thuộc huyện Thạch Hà. Năm 1989, Thạch Trung nhập vào thị xã Hà Tĩnh, chia làm 13 xóm.
Xã Thạch Môn, Bắc giáp xã Thạch Đỉnh, Đông giáp xã Thạch Khê, Nam giáp xã Thạch Đồng, Tây giáp phường Thạch Quý, xã Thạch Hạ. Trước năm 1945 là xã Đồng Môn thuộc huyện Thạch Hà, năm 1954 chia Đồng Môn làm 2 xã là Thạch Đồng và Thạch Môn. Thạch Môn có diện tích tự nhiên 5,530km2, dân số 2768 người và 4 xóm.
Xã Thạch Bình, phía Đông Bắc giáp xã Tượng Sơn, Đông giáp xã Thạch Thắng, Nam giáp 2 xã Cẩm Bình và Cẩm Vịnh, Bắc giáp Đại Nài. Trước năm 1945 là xã Phật Nạo thuộc huyện Thạch Hà. Năm 1946 nhập với các xã Đại Nài, Văn Thư (Thạch Tân) thành xã Thăng Bình. Năm 1954 lại chia Thăng Bình thành 3 xã: Thạch Bình (Phật Nạo), Thạch Hoà (Đại Nài), Văn Thư (Thạch Tân). Năm 2004, Thạch Bình sáp nhập vào thị xã Hà Tĩnh, có diện tích tự nhiên là 3,716km2, dân số 2432 người và 8 xóm.
Xã Thạch Hạ, Bắc giáp xã Hộ Độ, Đông giáp xã Thạch Đỉnh và Thạch Môn; Nam giáp phường Thạch Quý, Tây giáp xã Thạch Thượng (Thạch Hà) và xã Thạch Trung. Trước năm 1945 là xã Hà Hoàng thuộc Tổng Thượng Nhất. Năm 1950 nhập hai xã Hà Hoàng và Nhân Hoà (nay là xã Thạch Thượng) thành xã Quang Lĩnh. Đến năm 1954 lại chia Quang Lĩnh thành 2 xã Thạch Hạ và Thạch Trung (huyện Thạch Hà). Thạch Hạ có diện tích tự nhiên là 7,691km2, dân số 5579 người và 12 xóm.
Xã Thạch Đồng, Bắc giáp xã Thạch Môn, Đông giáp xã Thạch Khê; Nam giáp xã Thạch Hưng, Tây giáp phường Thạch Qúy. Trước năm 1945, là làng Đông và làng Nam thuộc xã Đồng Môn, Tổng Thượng Nhị, huyện Thạch Hà. Năm 1954 Thạch Đồng được tách ra từ xã Đồng Môn; được sáp nhập vào Thị xã năm 2004. Thạch Đồng có diện tích tự nhiên 3,357km2, dân số 3 397 người, 7 thôn. Xã Thạch Hưng, Bắc giáp xã Thạch Đồng; Đông giáp xã Thạch Tượng; phía Nam và Tây giáp phường Thạch Quý. Trước năm 1945 là 4 làng Hậu Hạ, Kinh Thượng, Thúy Hội, Kinh Hạ thuộc xã Trung Tiết, Tổng Thượng Nhị, huyện Thạch Hà. Năm 1954 trên cơ sở bốn làng trên thành lập xã Thạch Hưng. Thạch Hưng có diện tích tự nhiên 5,206km2, dân số 3292 người và có 9 thôn.
Xã Thạch Hưng, Bắc giáp xã Thạch Đồng; Đông giáp xã Thạch Tượng; phía Nam và Tây giáp phường Thạch Quý. Trước năm 1945 là 4 làng Hậu Hạ, Kinh Thượng, Thúy Hội, Kinh Hạ thuộc xã Trung Tiết, Tổng Thượng Nhị, huyện Thạch Hà. Năm 1954 trên cơ sở bốn làng trên thành lập xã Thạch Hưng. Thạch Hưng có diện tích tự nhiên 5,206km2, dân số 3292 người và có 9 thôn.
Ông Lê Quốc Khánh: Không ngừng sáng tạo, đổi mới trong “cuộc đua” số hóa
Ông Lê Quốc Khánh – Tổng Giám đốc Công ty CP Dược Hà Tĩnh
Sản xuất – kinh doanh trong thời đại số đặt Công ty CP Dược Hà Tĩnh (HADIPHAR) trong một môi trường cạnh tranh hết sức khốc liệt. Nếu như không thay đổi và kịp thời ứng dụng công nghệ chuyên sâu cho riêng ngành dược thì HADIPHAR sẽ bị tụt lại phía sau. Thời gian qua, chúng tôi đã ứng dụng giải pháp quản trị số song hành cùng các chiến lược công nghệ trong sản xuất – kinh doanh. Ngoài củng cố hệ thống phân phối 10 chi nhánh nội tỉnh và 8 chi nhánh ngoại tỉnh, công ty tiếp tục mở rộng mạng lưới thị trường, tìm kiếm đối tác mới và tăng cường xuất khẩu.
Không chỉ đổi mới chiến lược kinh doanh, HADIPHAR còn áp dụng số hóa trong quản trị doanh nghiệp, cải tiến nâng cấp dây chuyền sản xuất và tập trung nghiên cứu khoa học, cho ra đời các sản phẩm mới chất lượng với giá thành hợp lý. 9 tháng đầu năm, HADIPHAR đã cho ra đời 6 sản phẩm mới là thuốc, thiết bị y tế, thực phẩm bảo vệ sức khỏe. Công ty đang tạo việc làm ổn định cho 650 lao động, doanh thu năm 2023 đến nay đạt 320 tỷ đồng.
Trong cuộc đua thời đại số, HADIPHAR sẽ tiếp tục đổi mới để thích ứng với thị trường. Chúng tôi không đi theo một khuôn mẫu cũ kỹ, lối mòn mà sẽ không ngừng sáng tạo, đưa ra các ý tưởng, giải pháp mới mẻ, chiến lược làm việc hiệu quả; ứng dụng các nền tảng số, sử dụng công nghệ... để tối ưu sản xuất nhằm đưa doanh nghiệp ngày càng tiến xa hơn.
Anh Nguyễn Văn Hiếu: Xây dựng văn phòng làm việc không giấy tờ
Anh Nguyễn Văn Hiếu – Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Hà Tĩnh, Giám đốc Công ty CP LASA (TX Kỳ Anh)
Trong thời điểm dịch bệnh COVID-19, khi nhiều doanh nghiệp cắt giảm nhân sự thì chúng tôi vẫn giữ nguyên đội ngũ nhân viên để xây dựng nền tảng marketing cho công ty. Nhờ đó, sau dịch, chúng tôi có bước phát triển tốt hơn. Chúng tôi phát triển marketing trên website, facebook và các video trên sàn thương mại điện tử, khách hàng chỉ cần tìm kiếm bảo hộ lao động thì sẽ dễ dàng tiếp cận được sản phẩm, thông tin về công ty.
Công ty hiện có văn phòng, kho hàng ở Hà Tĩnh, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội nhưng gần như tôi không phải đi lại nhiều hay trực tiếp làm việc với nhân viên vì chúng tôi giải quyết các vấn đề chủ yếu thông qua các phần mềm. Văn phòng của công ty cũng gần như là văn phòng không giấy tờ.
Chúng tôi đã ứng dụng nền tảng số trong quản trị doanh nghiệp, quản lý kho bãi, nhân sự, đơn hàng. Có thể thấy, chuyển đổi số đã mang lại cho công ty tôi nói riêng và cộng đồng doanh nghiệp nhiều cơ hội, thuận lợi, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và giúp khách hàng tiếp cận thông tin sản phẩm, dịch vụ dễ dàng hơn.
Đối với thế hệ doanh nhân trẻ hiện nay, có lợi thế rất lớn là được đào tạo bài bản, tiếp cận nhanh nhạy với các công nghệ mới. Song để bắt kịp công nghệ, đưa các ứng dụng vào sản xuất kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn cập nhật kiến thức, năng động, sáng tạo, dám thử thách với những điều mới.
Bà Bùi Thị Hằng: Nâng cao năng suất, chất lượng công việc nhờ công nghệ
Bà Bùi Thị Hằng – Giám đốc Công ty CP Thương mại Hà Huy (TP Hà Tĩnh)
Công ty CP Thương mại Hà Huy đi vào hoạt động từ năm 2016 với ngành kinh doanh chính là khách sạn. Thuộc phân khúc 3 sao, khách sạn được khách hàng đánh giá phù hợp về giá cả và hài lòng về chất lượng dịch vụ. Nhờ đó, chúng tôi duy trì nguồn khách ổn định, hàng năm đạt chỉ tiêu đề ra.
Thời gian qua, trong bối cảnh khó khăn chung do dịch bệnh, suy thoái kinh tế, công ty đã có nhiều giải pháp để “kéo” khách hàng như: thực hiện chính sách ưu đãi đối với khách hàng thường xuyên; chăm sóc tốt để “giữ chân” khách hàng cũ, từ đó phát triển thêm khách hàng mới; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ; tích cực tham gia các diễn đàn, famtrip để kết nối các sản phẩm du lịch Hà Tĩnh và quảng bá khách sạn.
Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải tư duy hàng ngày, sáng tạo, đổi mới về công nghệ, cách thức quản lý... Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, chuyển đổi số đóng vai trò quyết định đến hiệu quả, thành công của doanh nghiệp. Hiểu được điều đó, chúng tôi đã ứng dụng các nền tảng công nghệ trong quản trị, điều hành công ty như sử dụng các phần mềm để đo lường số liệu, tính được mức độ chi tiêu của khách hàng khi đến với khách sạn, từ đó có những giải pháp để tăng số lượng khách, số lượng chi tiêu...
Ngoài ra, để giảm thời gian, chi phí họp hành, đào tạo, chúng tôi trao đổi công việc thông qua các nhóm chat; quảng bá hình ảnh khách sạn qua mạng xã hội; đẩy mạnh bán phòng trên các trang mạng như hellotrip, agoda, booking, vntrip... Nhờ có công nghệ, năng suất và chất lượng công việc được nâng cao đáng kể. Mọi thao tác, công việc làm việc trên máy với thủ tục nhanh gọn, dễ dàng hơn.
Ông Lê Đức Thắng: Đầu tư công nghệ gắn với xây dựng văn hóa doanh nghiệp
Ông Lê Đức Thắng – Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Phát triển công nghiệp - xây lắp và thương mại Hà Tĩnh
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang từng bước thay đổi từ cách thức kinh doanh truyền thống sang ứng dụng các nền tảng số, sử dụng công nghệ trong việc quản lý, điều hành... để tối ưu sản xuất kinh doanh.
Tận dụng các nền tảng công nghệ mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, đó là cắt giảm chi phí vận hành; tiếp cận được nhiều khách hàng hơn; giải quyết các vấn đề nhanh gọn; tối ưu hóa năng suất làm việc của nhân viên... Từ đó giúp tăng hiệu quả hoạt động, nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích đó, doanh nhân thời đại số bắt buộc phải hiểu biết về công nghệ, phải học hỏi, trau dồi kiến thức, dám thay đổi tư duy kinh doanh, bắt kịp với xu hướng và công nghệ mới.
Văn hóa doanh nghiệp là sức mạnh mềm, là một trong những yếu tố thành công của doanh nghiệp. Trong bối cảnh của thời đại công nghệ 4.0, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững không chỉ dựa trên đầu tư vào công nghệ, mà còn phải chú trọng văn hóa doanh nghiệp, xây dựng môi trường hoạt động hài hòa, thân thiện, tạo dựng đội ngũ lao động chuyên nghiệp, thực hiện tốt trách nhiệm với xã hội.